Ai có quyền được yêu cầu giải quyết ly hôn?

Trong những năm gần đây, tỷ lệ ly hôn không ngừng tăng đáng kể, và điều này phần nào phản ánh xu hướng thay đổi trong tư duy và giá trị của xã hội hiện đại. Cũng có thể hiểu rằng, dưới áp lực cuộc sống hiện đại, con người đối diện với nhiều áp lực và thách thức, từ công việc căng thẳng, khó khăn trong việc cân bằng cuộc sống gia đình và cá nhân, cho đến những rối ren về tài chính hay những sự khác biệt không thể hoà hợp giữa hai người.

Life After Divorce: How You Can Start Again – Cleveland Clinic

Ly hôn là gì?

Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có giải thích ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Như vậy, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án

Các trường hợp ly hôn nào bị cấm?

Theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì các trường hợp ly hôn bị cấm cụ thể như sau:

– Ly hôn giả tạo: Theo đó, ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.

– Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn; trong đó:

+ Cưỡng ép ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải ly hôn trái với ý muốn của họ.

+ Cản trở ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải duy trì quan hệ hôn nhân trái với ý muốn của họ.

Chủ thể có quyền yêu cầu ly hôn?

Việc yêu cầu giải quyết ly hôn được quy định cụ thể, không phải ai cũng có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn.

Theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, người có thẩm quyền yêu cầu giải quyết ly hôn là:

– Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

– Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

– Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Như vậy, người có quyền yêu cầu ly hôn là vợ, chồng hoặc người thứ ba liên quan (cha, mẹ, người thân thích khác). Tuy nhiên, nếu vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không được phép ly hôn.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

Tài sản vợ chồng sau khi ly hôn

Hôn nhân là kết quả của quá trình yêu thương giữa hai con người nhưng không ai đảm bảo rằng cuộc hôn nhân đó có thể duy trì mãi mãi. Khi mục đích hôn nhân không còn đạt được thì

Tín ngưỡng, tôn giáo trong hôn nhân

Tín ngưỡng, tôn giáo là gì? Theo Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 quy định:  “Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán

Tìm kiếm

Cuộn lên trên cùng